Vi Thùy Linh – thi sĩ của Ái quyền

Đến Phim đôi – Tình tự chậm, tập thơ thứ năm[1], Vi Thùy Linh đã hoàn tất một live show thơ dài 15 năm trên thi đàn. Chặng thơ cũng tựa như một bộ phim dài năm tập. Suốt 5 tập, phim chỉ có một nhân vật trung tâm: nàng Eva Linh nồng nàn, miệt mài đem vườn địa đàng về thì hiện tại mong xây dựng một đế chế yêu. Với Linh, yêu là thơ là dệt tầm gai[2]… là sống…

Nhà thơ trẻ Vi Thùy Linh.1. Để được đón đợi

Cuộc dấn thân quyết liệt và kiêu hãnh của ViLi[3], đã 15 năm. Hiếm ai say nghề, tan nát với nghề đến vậy. Mười lăm năm cho một cuộc chinh phục. Để được chấp nhận, thật thiên nan vạn nan. Có khi còn khó hơn cả cắm được cờ lên một đỉnh hiểm. Nhớ hồi mới trồi lên, mầm thơ Linh chưa được nâng niu đã phải đương đầu. Nếu non bấy, hẳn chồi mầm kia đã điêu đứng. May thay, đó là một mầm thơ đầy nội lực. Nó thách thức mọi bài bác cay nghiệt. Nó bất chấp mọi ngáng trở. Nó vượt lên từng ngày. Mỗi tập mới – một vụ nổ chữ mới. Mười lăm năm Linh vẫn là hiện tượng trẻ khuấy được dư luận mạnh nhất trong đời sống thơ Việt. Đến nay, mỗi xuất hiện mới của Linh đều làm bận rộn cả người đọc lẫn giới truyền thông. Mười lăm năm, lẽ nào là cái giá để được đón đợi ?

2Nữ quyền hay Ái quyền

Giới quyền không phải chuyện của Linh. Cái làm bận tâm thi sĩ này, thực ra, là Ái quyền. Quyền được yêu như một Con Người viết hoa. Đối với con người, quyền được yêu bao giờ cũng là phần đáng giá nhất của quyền sống. Ý thức về Ái quyền, ca tụng và đấu tranh cho Ái quyền, là nguồn cảm hứng sôi nổi nhất của hồn thơ Linh. Nó làm nên khuôn mặt nghệ thuật Vi Thùy Linh trong thơ đương đại: “Em yêu Anh như yêu sự hiện diện của chúng mình trên trái đất / Mặc tháng năm chạy về cuối mắt / Mặc thế gian đổi thay từng giờ khắc / Chúng mình yêu nhau”, “Ta / lúc nào cũng phá giới để yêu / Thì có nên tu không ?/ Biết tu ở kiếp nào ?/ Hôn nhau tràn tràn / Ta tu suốt đời dưới gốc cây bồ đề – Anh / Chúng mình siêu thoát”,Em yêu Anh cuồng điên / Yêu đến tan cả em… Kẻ thù của Ái quyền trong thơ Linh là sự giả dối và ươn hèn khiến con người đánh mất những tình yêu đẹp đẽ ; là tập quán lạc hậu của một cộng đồng chưa thực có truyền thống tôn trọng cá nhân nên cũng chưa biết tôn trọng tình yêu đầy đủ, trái lại, vẫn còn nhiều kì thị, thóc mách trước biểu tỏ riêng tư của đôi lứa. Ta hiểu vì sao, Linh xem sống là được yêu. Ta hiểu vì sao Linh thèm muốn những nụ hôn của tình yêu được đàng hoàng công khai dưới ánh ngày, được tự do biểu tỏ trước đám đông. Ta hiểu vì sao Linh thèm khát cái hạnh phúc được Hôn nhau giữa thủ đô La Mã… Anh ôm em bay giữa bầu trời Ý… Quyện nhau thành tháp nghiêng trên tháp, thèm được Uống nhau không biết mệt / Cho cả thế giới nhìn…“.

3. Từ vườn địa đàng…

Chữ Ái quyền không chỉ mang hàm nghĩa quen nhất là quyền được yêu. Nó còn tiềm ẩn một nét nghĩa khác cũng hết sức đáng kể : quyền năng của tình yêu. Thơ ViLi là sự ca tụng quyền năng đó.

Trong thơ, Linh luôn bày tỏ nỗi thất vọng về một thực tại như thế. Linh nói nhiều về những nguyên nhân và hậu quả : “Trái đất ốm yếu vì văn minh / Thế giới thiếu chất thơ nên loài người bi kịch”. Vì “Cả loài người ngộ nhận tham vọng vật chất”, vì “Dục vọng bời bời khiến người ta khốn khổ”, cho nên đến giờ “Thế giới còn rất ít người dám coi tình yêu là tối thượng”… Cái gì có thể giải cứu một thế giới như vậy ? Dĩ nhiên, chỉ có một quyền năng duy nhất : Tình yêu. Một tình yêu lớn và đẹp có thể giải cứu cả thế gian này. Linh tin thế.

Tình yêu nào có được quyền năng ấy ? Tình yêu của Eva/Ađam.

Một tình yêu sơ nguyên thuộc về sơ tâm. Một tình yêu vẹn nguyên và thuần khiết thuộc về cái tâm như bông sen buổi sáng. Linh dồn toàn bộ tâm huyết và tài nghệ để tôn vinh một tình yêu như thế. Càng kì vọng vào “Những cơn khát vỗ về dẫn đường chúng ta, định giá chúng ta giữa hiện thực nhá nhem, giá trị bị đánh tráo”, lại càng dị ứng gay gắt với những thứ tình yêu ngộ nhận, giả trang, rởm: “Lưỡi của loài người phải được gột sạch ngôn từ ngụy trang, tẩy rửa những cái hôn rởm, đọc điếu văn cho những cuộc tình ngộ nhận chết yểu”. Tình yêu thuần khiết thì bao giờ cũng là ái tiệc giữa vườn địa đàng. Tận hưởng, tận hiến đến từng phút giây sống trong nhau chính là thực đơn kì diệu của đại tiệc yêu này: “Vườn địa đàng một Eva Linh / Cánh đồng violette mênh mông / Làm nên bao ái tiệc / Hoa tím miền trinh miên quyến rũ / Tất cả đại tiệc yêu /… Cho đôi ta sống nhiều lần trong mỗi lần / Cho hoan ca dội vang vũ trụ / cho màu yêu loang nhiều thế kỉ /…Môi rực tan thân nhiệt vã sáng / Li ti sao vòm vòm cây thụ tình”.

Tình yêu đích thực làm sao thiếu được tình tự ái ân. Bản thân ái ân là một vẻ đẹp sơ nguyên. Ý thức văn minh rởm ngự trị trong chúng ta đã biến nó thành cấm kị, che đậy nó bằng cái lá nho giả trang. Ngay từ buổi ban sơ của sự sống người, cảnh ái ân sơ nguyên đã được tổ tiên tôn vinh trên thạp đồng Đào Thịnh. Xóa bỏ dần những cấm kị vô lối, dỡ bỏ dần cái lá nho vờ vịt kia chính là nỗ lực của văn minh thật. Hẳn nhiên, cũng là nỗ lực của thơ yêu mỗi thời. Vậy mà khi những tiếng thơ như thế vừa cất lên, tập quán liền giãy nảy, hùa vào chống trả. Đến thời Vi Thùy Linh, tận thế kỉ XXI rồi, chuyện đã khá hơn đâu. Linh chả được thói đời miễn trừ một búa rìu nào. Cố nhiên, nhiễu loạn rồi cũng qua. Và, may thay, sau mỗi lần như thế, ý thức của con người về tình tự dường như lại nấn rộng một vòng, mỹ cảm về ái ân lại nâng lên một tầm. Giờ đây, ít ai còn nghi ngờ điều này: tôn vinh ân ái bằng những thi ảnh ngỡ trần tục mà đầy thi vị là sở trường của Linh.  “Những đường cong khỏa vào sóng chữ/                       Em say nắng mất rồi, em say thêm nữa nhé/ Mặc cho búp hôn thụ phấn thân người”,  Những con chữ nảy hạt dưới da/ Những con chữ hòa máu em vào anh/ Khao khát mở đường cong hợp cẩn”, Ngày anh đến mùa tình lên/Yên lặng mở những ngón tay chìa khóa”, Da thịt dậy tình làm rơi xiêm áo/Eo chờ đợi vuốt ve thắt bão”, Vào lúc hạt hạt mồ hôi cha thấm vào ngực mẹ/ Mặt đất già chật chội nở dần những luống hoa đồng trinh”, Cài then tiếng khóc của em bằng đôi môi anh/ Cài then em bằng anh”.

Nhà điêu khắc A.Rodin đã dành cả đời mình tôn vinh nụ hôn của con người bằng hoa cương và cẩm thạch. Vi Thùy Linh muốn làm một thi sĩ tôn vinh ái ân của con người bằng thi ảnh và ngôn từ, chị là người lãng mạn giữa thời buổi này. Tôi chắc những đầu óc hiện thực  khó chia sẻ quan niệm và cách nhìn của Linh. Nhưng, từ vạn kiếp, tình yêu luôn là phần lãng mạn nhất của cõi người, làm sao có thể thiếu những cách tiếp cận lãng mạn được !

4. … đến đế chế Yêu

Linh còn đẩy niềm lãng mạn đi xa hơn khi xem tình yêu là sự hoàn thiện bản thể. “Tôi là tôi / Một bản thể đầy mâu thuẫn”. Cái tôi ấy chỉ trở nên hoàn thiện bởi tình yêu và trong tình yêu: “Vào lúc những kim đồng hồ nhập một / Chúng ta trở thành một bản thể / Và khi ấy / Em nhận ra / Anh là bản đồ thế giới”. Tình tự không chỉ là thú yêu đương trong hoan lạc hiện sinh, bởi với Linh “Thể xác chỉ là minh họa của tinh thần”. Tình tự là lúc vượt thoát nỗi cô đơn bản thể, vượt thoát mặc cảm thiếu khuyết: “Những ngôi sao tung vạn tinh thể ướt sáng, bọc Anh và em thành một bản thể”. Tình tự là lúc sự sống trong vũ trụ này đang làm cuộc hóa sinh kì diệu của nó trong những bản thể người: “sự vận động âm – dương là bản chất thế giới”. Tình tự là lúc cảm nhận được sự bình yên mặt đất, bình yên của phận người: “Khi hôn mắt Anh, mắt trong mắt Anh / Em nhìn thấy sự vận động của thế giới từ những hạt mầm còn nằm trong ngấn nước / Khi nằm nơi Anh / Em như ở trên hòn đảo bình yên của cuộc đời mình / Khi áp vào tai Anh / Em nghe thấy muôn tiếng sóng vỗ về miên man như áp con ốc biển / Khi em hòa trong toàn vẹn Anh / Em đã vén được bức màn bí ẩn về sự sống / Và em biết / Với tình yêu của em /Anh có thể ngẩng cao, trở thành chính mình”. Hoàn thiện mỗi bản thể bằng/trong một tình yêu lớn, cách duy nhất để hoàn thiện thế giới này.

Trên thi đàn, đây đó, không ít người rơi vào những bận lòng thỏn mỏn của cái tôi tiểu kỷ, chả đại diện được gì. Nhưng, ở những gương mặt đáng kể, ta vẫn thấy tầm vóc không thể xem thường của cái tôi bản thể. Sống với niềm băn khoăn ấy, Vi Thùy Linh là một trong những tiếng nói mãnh liệt nhất của cái tôi bản thể đó.

Nghệ sĩ thực thụ phải tạo ra được thế giới nghệ thuật của riêng mình. Chưa làm được điều này, thì chưa thể có khuôn mặt nghệ thuật thực sự thuyết phục. Là một hiện tượng trẻ, nhưng Vi Thùy Linh đã sớm chín. Linh đã xây cất được một thế giới riêng trong thơ : Thế giới đang yêu. Một tình yêu luôn ở thì hiện tại. Thế giới ấy có thời gian là những mùa tình không dứt, không gian là cõi tình không biên giới, cả không/thời gian đều nhuốm một sắc tím không cùng.  Vạn vật trong đó, từ cụm hoa đến bầu trời, từ rêu cỏ đến biển đảo, từ cơn gió đến ngọn sóng, từ thân cầu đến đỉnh tháp, từ khung cửa đến bức rèm, từ ly rượu đến ngọn nến, đến cả những thành phố lớn như Hà Nội, Rome, Paris… đều “đang yêu bằng trái tim lãng mạn”, đang tình tự bằng muôn vàn tế bào dậy men tình ái, lồng lộng nude ánh sáng: “Đại lộ dài như một cơn hôn”, “Những núi vú ưỡn lên nóng bỏng, những núi vú non tơ sáng rực, những chóp vú khát yêu triệu năm, tự do hoan lạc giữa mùa tình không bao giờ hết”, “Vỗ vào bờ muôn đợt sóng khỏa trắng tinh khôi”, “Cây cầu kết bằng trăm thiếu nữ đùi nối nhịp mĩ kiều lồng lộng nude sức sống”, “Nắng mạch nha trắng trong hệt lúc em vừa tắm”, “Gió ào đến bế thốc mùa thu đi”… Linh đã thổi những cơn yêu của mình vào mỗi sự vật,  để vật nào cũng mang một mảnh hồn yêu. Nghĩa là Linh đã phổ vào tạo vật của mình một bầu khí quyển riêng: khí quyển yêu.

Tìm hiểu thế giới nghệ thuật của một nhà thơ tình, tôi thấy một mô hình phổ biến với ba hệ thống hình tượng vừa song hành vừa đan xen chuyển hóa lẫn nhau: Cái tôi – Người tình – Thế giới. Trong thơ Linh, mỗi hình tượng ấy có một diện mạo. Tôi là nàng Eva Linh. Cái tôi ấy mang trong mình một tình yêu nồng nàn đến cuồng điên, đam mê đến tan nát. Điều thật lạ ở nàng Eva này là nỗi khát yêu càng vô giới hạn thì khao khát làm mẹ càng vô bờ bến. Nàng thèm có con từ vị thành niên và ham phiêu linh trong viễn tưởng nhiều con. Với nàng, yêu là sống, cõi sống là cõi yêu, càng nhiều con càng nối dài sự sống trên cõi yêu này. Người tình là Anh, một Anh luôn được viết hoa. Chàng được tình yêu sơ nguyên của Eva biến thành một Ađam lí tưởng và linh thánh (vì thế, trong thơ Linh không thể có một tiếng thơ nào than trách về chàng hay tranh chấp giới quyền với chàng). Và Thế giới, cõi tình quanh họ, là vườn địa đàng thì hiện tại cần được nâng cấp. Cuộc tương tranh giữa hoa địa đàng và rác văn minh đang ở hồi quyết liệt. Những cặn bã và rác rưởi của đô thị hóa, công nghiệp hóa, thị trường hóa… đang hòng robot hóa con người và hoang vu hóa vườn xưa. Nhưng, từ Eva và Ađam bản nguyên khí lực của tình yêu lớn và đẹp không ngừng trào tuôn vào thế giới nhằm cải hóa địa đàng thành đế chế yêu. Vì thế, không chỉ riêng khi yêu ở Rome, mà ở mọi chốn, quyền năng màu nhiệm của tình yêu ấy luôn giúp Eva Linh đồng hóa thế giới này : Hôn nhau giữa thủ đô La Mã/ Pisa nghiêng thêm / Anh ôm em bay giữa bầu trời Ý / Quyện nhau thành tháp nghiêng trên tháp / Váy bay tóc bay mắt bay sóng sánh/ Chúng mình là ngôi sao bay, là tượng tình yêu đang thở, in vào La Mã xanh/ Pisa thứ hai / Dẫu Pisa cũ sụp xuống / Dáng nghiêng hôn nhau quên thời gian vẫn in lên nền trời Rome / Một đế chế Yêu vĩnh cửu… Biến thế giới thành đế chế Yêu vĩnh cửu, chẳng phải là đích lãng mạn nhất của văn minh sao? Và, nỗ lực vì đế chế Yêu như thế, chẳng phải là nghiệp yêu của ViLi sao ?

5. Người dệt tầm gai thành thơ

Tôi gọi ViLi là thi sĩ mắn chữ. Mắn là phúc lộc, cũng là tội tình. Nên người đọc Linh luôn có hai cảm giác: cuốn hút và ức chế. Cuốn hút bởi một trữ lượng thi ca dồi dào, câu chữ sinh sôi, tình ý nườm nượp, thi ảnh ngồn ngộn. Còn ức chế bởi chính mặt trái: tràn lan và ồn ào. Do thế, tôi đã ngờ thơ Linh sẽ vậy thôi, thứ dầu thô khó tinh lọc, thứ quặng pha khó tinh luyện. Đến khi đọc câu tự bạch này: “Ta dâng hiến cho thơ những năm tháng thanh xuân đẹp nhất / Dệt tầm gai thơ dệt sợi máu thành chữ”, tôi giật mình. Mình thiếu kiên nhẫn chăng ? Đã thiếu công bằng trước những dòng thơ dệt từ sợi máu đó chăng ?

Đọc Linh là phải thả trôi theo sự “tràn trề”: “Em vùi em vào anh, nảy mầm chưa từng có / Ảo thuật giác quan ốp la món trứng mặt trời / … Anh dắt em đi mãi trong màu xanh của phố, trên triền xanh của sóng, giữa không tận của trời / Chúng mình đã đi qua bao thế kỉ bất an, sao loài người yếu đuối đến thế?! / Chúng mình đã đi qua ánh sáng bao nền văn minh huy hoàng mà nhân gian vẫn tìm gì mãi thế?! / Điều quan trọng nhất, bí mật hệ trọng nhất là biết yêu trong sự sống tận cùng / Đi bộ qua vòm trời, anh nằm bên em giữa thời đại mệt nhoài rạn bóng những thế kỉ… Tràn trề khiến thơ Linh có dáng dấp thơ văn xuôi. Tràn trề khiến mỗi bài thơ Linh như lồng ngực nhỏ của thơ ngắn lại chất chứa hơi thở phóng túng của trường ca – một chiêu pháp định dạng một lối thơ. Thực ra, trước khi là một chiêu, nó là một điệu sống. Ai gần đều thấy Linh có một điệu sống ấn tượng: như dòng nước khoáng nóng không ngừng xối xả. Dòng sống mạnh xô đẩy cảm xúc tự trong hồn đã tuôn tràn ra thành sự xô đuổi câu chữ trên mặt giấy. Nó là một tạng chất. Chủ thể chỉ có thể sửa đổi mà không thể thay đổi. Thứ thơ như thế sẽ luôn là phép thử đối với đức kiên nhẫn. Năng nhẫn thì sẽ vượt qua lớp thô gai để nâng niu những sợi máu chữ. Máu từ ngón tay trầy xước của nàng dệt tầm gai thơ. Sâu xa hơn, máu từ sự sống của một hồn thơ. Còn bất năng nhẫn thì “kính nhi viễn chi” trước những sợi máu thơ do phát mệt với đám thô gai của ngôn từ.

Thơ Linh lúc này cứ xui tôi nhớ đến phim Long thành cầm giả ca. Nếu phim của Đào Bá Sơn được xem là thơ trên màn bạc, thì thơ Linh là phim trên giấy. Ai quan tâm đến thơ đều thấy một thực tế: thơ hiện nay đang phải chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt của các nghệ thuật khác. Nhiều đối thủ đáng gờm đang cướp bạn đọc của thơ. Để sống và cạnh tranh, thơ phải tự thay đổi bản thân. Hiện có hai xu hướng rõ rệt: một là, vay mượn ưu thế của các nghệ thuật khác để làm giàu; hai là, tự đào sâu vào mình để làm mới từ những ưu thế đặc thù. Nghe – nhìn có lẽ là đối tượng được thơ tìm tới để vay mượn nhiều nhất. Sắp đặt, trình diễn đã sớm được thơ vời cũng theo tinh thần ấy. Trên sân khấu, là người chịu chơi thơ, Linh đắm mê trình diễn thơ. Nhưng trong văn bản, phim mới là nghệ thuật Linh am tường và khai thác nhiều để làm ra thơ mình. Có phải đến Phim đôi – Tình tự chậm, Linh mới học phim để làm thơ không ? Không. Từ tập đầu đã thấy xu hướng này rồi. Linh coi trọng những khuôn hình, coi trọng tốc độ chuyển cảnh, dàn cảnh, tin dùng động từ hơn tính từ để hình không tĩnh kiểu tranh mà động kiểu phim. Linh thường show những cảnh toàn, cảnh cận, cảnh đặc tả khiến câu thơ, đoạn thơ như một chuỗi khuôn hình trên màn bạc. Có thể nói tư duy hình của Linh rất phim: “Đột ngột vào kịch tính / Nữ kỵ sỹ cưỡi bạch mã phi nước đại xa lộ / Đến villa trắng phủ dây leo xanh / Núi rặng rặng gần xa / Mây đắp xanh kín biển / Nghênh chiến thách thức”… Ngay chiêu lặp, bề ngoài tưởng chỉ là phép điệp quen thuộc như “vòm vòm”, “phố phố”, “cánh cánh”, “nhà nhà”, “ngàn ngàn”, “cây cây”… chúng trở đi trở lại trong thơ Linh theo dụng ý phim, như cách lia máy, chạy máy bao quát hoặc bám sát chuyển động của hình chủ: “Khi Anh chở em lướt Vespa phố phố”, “Tôi luyện tôi bề bề bão”, “Li ti sao vòm vòm cây thụ tình”… Hay cách chồng hình của phim đã nhập vào lối chồng chữ này: “Mình ôm lấy Anh ôm mình” … đều cho thấy cách dụng hình, dụng chữ của Linh hấp thu từ điện ảnh thế nào. Tư duy hình ảnh kiểu Linh thì có lẽ chưa. Thành công nhiều hay ít, còn tùy đánh giá của lối đọc. Bảo rằng Linh không có cách tân gì đáng nói về hình thức là không công bằng. Trái lại, trong cách tân thơ đương đại, Linh phải thuộc top tiên phong.

Dấn thân vào cuộc đời và cuộc thơ này, Linh mang theo một tâm niệm : Đỉnh cao sự sống là hợp linh nghệ thuật và tình yêu. Tất nhiên, để đạt được đỉnh ấy, không thể thiếu hợp linh của nội lực và cật lực.

Nội lực một Eva cật lực kiểu dệt tầm gai, là Vi Thuỳ Linh.

Làng Quốc tế Thăng Long, mùa bằng lăng 2011

Chu Văn Sơn

_________________

Đánh giá

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.